Nếu không được điều trị và can thiệp đúng, các biến chứng của bệnh Rueblla rất nguy hiểm có thể xảy ra như viêm khớp, giảm tiểu cầu, viêm màng não – viêm não, hội chứng Rubella bẩm sinh,…
Trong hầu hết các trường hợp bệnh Rubella đều lành tính và khỏi hoàn toàn sau khi điều trị. Tuy nhiên, nếu không được quan tâm và điều trị đúng cách, các biến chứng của bệnh Rubella gây nên cũng có thể xuất hiện và để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng, lâu dài cho sức khỏe của bệnh nhân.
Một số biến chứng do bệnh Rubella gây nên:
1. Viêm khớp, đau khớp
Viêm khớp, đau khớp là một trong các biến chứng của bệnh Rubella thường gặp nhất trên thực tế. Nhưng biến chứng của bệnh Rubella này được ghi nhận nhiều hơn ở bệnh nhân lứa t.uổi thanh niên hoặc người lớn, nữ giới cũng có tỷ lệ mắc viêm khớp do biến chứng của Rubella cao hơn từ 4-5 lần so với nam giới.
Các biểu hiện đầu tiên của viêm khớp do biến chứng của Rubella thường sẽ xuất hiện khi tình trạng phát ban khởi phát. Viêm khớp do biến chứng của bệnh Rubella hay gặp nhất ở các khớp cổ tay, khớp ngón tay, khớp gối và khớp mắt cá nhân. Biểu hiện thông thường nhất khi bệnh nhân bị viêm khớp là đau. Nhưng đôi khi viêm khớp cũng có thể biểu hiện bằng tình trạng nặng nề hơn với tràn dịch tại các ổ khớp,…
Thông thường, viêm khớp do biến chứng của bệnh Rubella sẽ kéo dài từ 2-30 ngày trước khi biến mất và ít khi để lại di chứng đối với khả năng vận động sau này của người bệnh. Tuy nhiên trong một số trường hợp, bệnh nhân sẽ cần thời gian lâu hơn để tình trạng viêm khớp có thể biến mất hoàn toàn.
Để khắc phục biểu hiện của viêm khớp ở bệnh nhân Rubella, người bệnh có thể được chỉ định sử dụng các biện pháp giảm đau không dùng thuốc (chườm nóng, chườm lạnh,…), giảm đau bằng thuốc, hạn chế vận động,…
Viêm khớp cổ tay là một biến chứng của bệnh Rubella rất thường gặp (Ảnh: Internet)
2. Biến chứng giảm tiểu cầu ở bệnh nhân Rubella
Tiểu cầu là một loại tế bào tồn tại trong m.áu của con người, vai trò chính của tiểu cầu trong cơ thể là tham gia vào quá trình đông m.áu. Khi số lượng tiểu cầu trong cơ thể giảm xuống, các cơ chế đông m.áu sẽ bị rối loạn dẫn đến hậu quả khiến cho bệnh nhân dễ bị xuất huyết, thậm chí có thể đe dọa tính mạng của người bệnh nếu xuất huyết ồ ạt.
Khi bệnh nhân bị mắc bệnh Rubella, cơ thể sẽ sản sinh ra kháng thể để có thể chống chọi với bệnh. Nhưng các kháng thể này cũng có thể kết hợp, phản ứng chéo với tiểu cầu do có cùng tính kháng nguyên với mầm bệnh, khiến kháng thể nhận diện nhầm tiểu cầu trở thành một yếu tố có hại cho cơ thể và tiến đến kết hợp. Phức hợp kháng thể – tiểu cầu sau khi hình thành sẽ bị các bạch cầu của cơ thể bắt giữ và tiêu hủy. Hậu quả là số lượng tiểu cầu của bệnh nhân bị giảm đi do tăng tiêu hủy.
Ngoài ra, khi kháng thể kết hợp với mẫu tiểu cầu trong tủy xương (t.iền thân của tiểu cầu trưởng thành) làm tiêu hủy mẫu tiểu cầu thì cũng sẽ gây giảm tiểu cầu do quá trình sản xuất tiểu cầu bị rối loạn.
Khi bị giảm tiểu cầu do biến chứng của bệnh Rubella, nếu mức tiểu cầu chỉ giảm nhẹ thì bệnh nhân có thể không có bất kỳ biểu hiện nào, chỉ có thể phát hiện giảm tiểu cầu thông qua xét nghiệm công thức m.áu. Nhưng nếu mức tiểu cầu giảm nhiều, có thể gặp các biểu hiện của tình trạng xuất huyết như các mảng xuất huyết, bầm tím dưới da, ra m.áu mũi, ra m.áu chân răng, nôn ra m.áu, đi cầu phân đen, xuất huyết â.m đ.ạo bất thường,…
Khi bệnh nhân bị giảm tiểu cầu do biến chứng của bệnh Rubella, vấn đề can thiệp bệnh nhân thường sẽ được đưa ra dựa trên mức độ giảm tiểu cầu và tình trạng xuất huyết của bệnh nhân. Do liên quan đến yếu tố miễn dịch nên hai biện pháp điều trị chính hiện nay là sử dụng Methylprednisolon và truyền tiểu cầu.
Chỉ định sử dụng Methylprednisolon được đưa ra khi mức tiểu cầu giảm dưới 20G/L. Thời gian sử dụng thuốc thường kéo dài đến 3 tuần. Sau đó nếu không đáp ứng với điều trị có thể giảm liều và phối hợp hoặc thay bằng thuốc khác như Rituximab,…
Truyền tiểu cầu chỉ được chỉ định ngay khi tiểu cầu của bệnh nhân còn trên 50 G/L nhưng có biểu hiện xuất huyết nặng, và truyền tiểu cầu thường quy với các trường hợp tiểu cầu giảm dưới 20G/L.
Giảm tiểu cầu do biến chứng của bệnh Rubella có thể gây nên tình trạng xuất huyết từ nhẹ cho đến rất nghiêm trọng (Ảnh: Internet)
3. Viêm màng não – viêm não do biến chứng của Rubella
Viêm màng não – viêm não do biến chứng của bệnh Rubella là một biến chứng liên quan đến hệ thần kinh trung ương. Tác nhân virus trong m.áu di chuyển qua hàng rào m.áu não vào trong dịch não tủy gây viêm màng não – viêm não và làm tổn thương não.
Biến chứng này là một biến chứng của bệnh Rubella khá hiếm gặp, tỷ lệ mắc khoảng 1/5000 bệnh nhân, và thường hay gặp ở t.rẻ e.m hơn là người lớn. Viêm màng não – viêm não do bệnh Rubella thường chỉ xuất hiện trong khoảng thời gian 1 tuần kể từ khi có biểu hiện phát ban trên da, nhưng cũng có thể khởi phát muộn.
Tương tự như các trường hợp viêm màng não – viêm não khác, viêm màng não – viêm não do biến chứng của bệnh Rubella cũng biểu hiện bằng các triệu chứng như chậm chạp, ngủ gà, kích thích, rung giật nhãn cầu, co giật, liệt dây thần kinh, cổ cứng, các dấu hiệu màng não dương tính,… Để chẩn đoán chính xác viêm màng não – viêm não do biến chứng của bệnh Rubella thì người ta cần dựa vào kết quả xét nghiệm dịch não tủy (bạch cầu lympho tăng ưu thế đặc trưng cho tình trạng bệnh do nguyên nhân virus, nồng độ Glucose dịch não tủy bình thường và mức Protein có thể bình thường hoặc tăng nhẹ,…).
Nếu không được điều trị đúng đắn và can thiệp kịp thời, viêm màng não – viêm não do biến chứng của bệnh Rubella có thể diễn tiến nặng, bội nhiễm vi khuẩn, hoặc để lại các di chứng lâu dài về thần kinh cho sức khỏe của bệnh nhân.
Các nội dung chính trong điều trị viêm màng não – viêm não bao gồm chống phù não bằng các dung dịch ưu trương, hạ nhiệt thích hợp, truyền kháng thể Gammaglobulin, sử dụng Methyprednisolon, và sử dụng kháng thuốc kháng sinh khi có các biểu hiện của bội nhiễm vi khuẩn,…
Viêm màng não do biến chứng của bệnh Rubella là biến chứng hết sức nguy hiểm (Ảnh: Internet)
4. Các dị tật bẩm sinh do biến chứng của bệnh Rubella
Mắc bệnh Rubella ở phụ nữ mang thai được quan tâm một cách đặc biệt. Bởi virus Rubella có thể qua được nhau thai và xâm nhập để gây bệnh cho thai nhi, nên mắc Rubella khi mang thai rất dễ gây nên dị tật thai nhi. T.uổi thai khi mắc bệnh càng nhỏ thì nguy cơ dị tật càng cao.
Các số liệu thống kê cho thấy rằng, nếu mắc bệnh trước tuần 13 thai kỳ thì tỷ lệ dị tật thai nhi khoảng 75-100% trẻ sinh ra mắc Rubella bẩm sinh, trong đó khoảng 25 %có dị tật. Nếu mắc bệnh từ tuần thứ 13 -18 thai kỳ, tỷ lệ mắc Rubella bẩm sinh giảm xuống còn khoảng 17% và khi mắc bệnh muộn hơn thì tỷ lệ này giảm xuống ở mức không đáng kể.
Do sự ảnh hưởng nặng nề và lâu dài lên sức khỏe của trẻ khi mắc Rubella bẩm sinh, do đó các biểu hiện dị tật do bệnh Rubella bẩm sinh thường được gọi với tên hội chứng Rubella bẩm sinh. Các biểu hiện chính của hội chứng Rubella bẩm sinh bao gồm sinh non nhẹ cân, đục nhân mắt, đục giác mạc, thông buồng tim, còn ống động mạch, câm, điếc, chậm phát triển trí tuệ,..
Bởi các hậu quả của hội chứng Rubella bẩm sinh là rất nghiêm trọng, vì vậy vấn đề thường được đặt ra là nên chấm dứt hay tiếp tục duy trì thai kỳ ở một thai phụ mắc bệnh Rubella. Chỉ định duy trì hay chấm dứt thai kỳ sẽ được xác định dựa vào t.uổi thai tại thời điểm chẩn đoán bệnh.
– Nếu thai kỳ dưới 13 tuần t.uổi: Nên chấm dứt thai kỳ sớm bởi nguy cơ dị tật rất cao.
– Nếu thai kỳ từ 13-18 tuần t.uổi: Có thể theo dõi tiếp tục hoặc chấm dứt thai kỳ tùy thuộc vào tình hình cụ thể. Tốt nhất nên thực hiện tìm virus Rubella trong nước ối, tiến hành chấm dứt thai kỳ với các trường hợp virus Rubella nước ối dương tính và có thể theo dõi tiếp nếu kết quả âm tính.
– Nếu thai kỳ trên 18 tuần: Không có chỉ định chấm dứt thai kỳ, tiếp tục theo dõi và chăm sóc như thai kỳ bình thường,…
5. Một số biến của bệnh Rubella khác có thể gặp
Bên cạnh các biến chứng như viêm khớp, viêm màng não – viêm não, giảm tiểu cầu, dị tật bẩm sinh như đã kể trên thì bệnh Rubella còn có thể gây nên một số các biến chứng khác như tình trạng viêm gan nhẹ, viêm phổi, viêm t.inh h.oàn,…
Hầu hết các biến chứng này đều ở mức độ nhẹ và có thể được cải thiện nhanh chóng nếu được điều trị đúng cách và chăm sóc đúng đắn sau đó. Tuy nhiên, vẫn cần phải theo dõi thường xuyên bởi bác sĩ để có thể chắc chắn rằng các biến chứng đã được khắc phục và sẽ không gây nên hậu quả lâu dài nào cho bệnh nhân.
Qua đây có thể thấy rằng, mặc dù không phải là một bệnh lý nguy cấp nhưng mức độ nguy hiểm của bệnh Rubella lại cực kỳ nghiêm trọng bởi các nguy cơ biến chứng mà nó gây nên. Do đó, người bệnh cần thực hiện tốt các chỉ định điều trị và theo dõi từ bác sĩ để phát hiện và có hướng xử trí kịp thời, thích hợp nếu có các biến chứng của bệnh Rubella xảy ra.
Ai dễ mắc biến chứng của bệnh Rubella?
Bệnh Rubella hầu hết đều lành tính khi mắc phải. Tuy nhiên, đôi khi các biến chứng của bệnh Rubella cũng có thể xảy ra như viêm khớp, viêm màng não – viêm não, giảm tiểu cầu,…
Các đối tượng dễ mắc biến chứng của bệnh bao gồm phụ nữ, t.rẻ e.m và phụ nữ mang thai những tháng đầu của thai kỳ.
Mặc dù trên thực tế, trong phần lớn các trường hợp bệnh Rubella đều lành tính và có thể khỏi mà không gây nên hậu quả gì cho người mắc. Tuy nhiên, cũng có không ít các trường hợp có các biến chứng của bệnh Rubella xảy ra khi bị mắc bệnh.
Vì vậy, xác định được các nhóm đối tượng có nguy cơ cao mắc những biến chứng do bệnh Rubella là rất cần thiết để có kế hoạch theo dõi và điều trị bệnh nhân thích hợp hơn, tránh bỏ sót các biến chứng.
1. Một số biến chứng của bệnh Rubella
Khi mắc Rubella, dưới sự tấn công của virus và sự đáp ứng lại của các cơ chế miễn dịch trong cơ thể, các biến chứng của bệnh có thể xảy ra ở nhiều hệ cơ quan khác nhau dưới nhiều cơ chế khác nhau. Trong đó, những biến chứng thường gặp có thể kể đến như:
– Viêm khớp: Viêm khớp là biến chứng phổ biến nhất khi mắc bệnh Rubella. Tình trạng viêm khớp thường bắt đầu xuất hiện và kéo dài trong khoảng thời gian từ 2-30 ngày kể từ khi phát ban ngoài da. Các khớp viêm thường có biểu hiện đau nhức, đôi khi có thể sưng đỏ, hạn chế hoạt động của bệnh nhân,…
Vị trí thường gặp viêm khớp do biến chứng của bệnh Rubella nhất bao gồm khớp ngón tay, khớp cổ tay, khớp gối và khớp cổ chân,…
– Viêm màng não – viêm não: Là một biến chứng của bệnh Rubella trên hệ thần kinh trung ương khiến màng não, nhu mô não bị viêm. Đây là một biến chứng nguy hiểm, dễ để lại nhiều hậu quả lâu dài do các tổn thương tại não, thậm chí là đe dọa tính mạng bệnh nhân nếu không được can thiệp và điều trị đúng.
Các dấu hiệu điển hình khi mắc viêm màng não – viêm não do biến chứng của bệnh Rubella kể đến như rối loạn tri giác, sợ ánh sáng, đau đầu, nôn ói, cổ cứng, các dấu hiệu màng não dương tính,…
– Giảm tiểu cầu: Giảm tiểu cầu do biến chứng của bệnh Rubella xảy ra chủ yếu liên quan đến yếu tố miễn dịch của cơ thể. Giảm tiểu cầu quá mức có thể khiến tình trạng xuất huyết xảy ra, các mức độ xuất huyết có thể thay đổi nhiều từ nhẹ với xuất huyết dưới da, cho đến các mức nặng hơn như xuất huyết niêm mạc, xuất huyết não,…
– Dị tật thai nhi: Dị tật thai nhi là một biến chứng của bệnh Rubella rất nguy hiểm, để lại hậu quả lâu dài cho thai nhi sau khi sinh. Các biểu hiện thường thấy trong hội chứng Rubella bẩm sinh do mẹ bị mắc bệnh Rubella trong thời kỳ mang thai bao gồm sinh non nhẹ cân, dị tật tim, đục nhân mắt, đục giác mạc, chậm phát triển trí tuệ,…
Ngoài ra, một số các biến chứng của bệnh Rubella khác cũng có thể gặp bao gồm viêm gan nhẹ, viêm t.inh h.oàn, viêm phổi,…
Xuất huyết giảm tiểu cầu là biến chứng của bệnh Rubella rất nguy hiểm (Ảnh: Internet)
2. Những ai dễ mắc các biến chứng của bệnh Rubella?
Chính bởi sự nguy hiểm và ảnh hưởng lâu dài của các biến chứng Rubella, vì thế cần thiết xác định được các nhóm bệnh nhân có nguy cơ mắc biến chứng bệnh cao hơn, điều này có lợi cho quá trình theo dõi và tầm soát để phát hiện, điều trị sớm các biến chứng nếu chúng có xảy ra.
Các đối tượng dễ mắc biến chứng của bệnh Rubella bao gồm:
– T.rẻ e.m: Theo các thống kê cho thấy, t.rẻ e.m dễ bị mắc biến chứng của bệnh Rubella cao hơn hẳn so với người lớn. Điều này có thể liên quan nhiều đến hệ miễn dịch còn chưa hoàn thiện hoàn toàn của trẻ. Những biến chứng của bệnh Rubella hay gặp ở t.rẻ e.m bao gồm xuất huyết giảm tiểu cầu, viêm màng não – viêm não,…
– Phụ nữ: Khi mắc bệnh Rubella, phụ nữ sẽ dễ bị các biến chứng của bệnh hơn là các bệnh nhân nam giới. Người thấy rằng, nữ giới có khả năng bị mắc biến chứng viêm khớp do bệnh Rubella cao gấp 4-5 lần so với nam giới. Bên cạnh đó, xuất huyết giảm tiểu cầu do biến chứng của bệnh Rubella cũng dễ xảy ra ở nữ giới hơn nam giới và ở trẻ gái nhiều hơn ở trẻ nam.
– Phụ nữ mang thai quý đầu thai kỳ: Virus Rubella có khả năng qua nhau thai đến xâm nhập thai nhi. Do trong giai đoạn quý đầu của thai kỳ (trước tuần 13) là giai đoạn lên quan nhiều đến sự biệt hóa các cơ quan và tổ chức của thai nhi, do đó sự xâm nhập và tấn công của virus Rubella dễ dẫn đến các rối loạn đối với quá trình này, hậu quả là tình trạng dị tật bẩm sinh ở thai nhi.
Vì thế bà bầu tiêm phòng trước khi mang thai để phòng tránh các bệnh có thể gây dị tật thai nhi là rất quan trọng. Bạn nên biết về Các mũi tiêm nên tiêm trước khi mang thai.
Nếu phụ nữ mang thai mắc bệnh trước tuần 13 của thai kỳ, có đến 70% các trường hợp thai nhi sẽ bị nhiễm virus Rubella và trong đó có đến 25% các trường hợp sẽ bị dị tật bẩm sinh. Tuy nhiên, tỷ lệ mắc Rubella bẩm sinh giảm nhanh xuống còn 17% khi mắc Rubella vào tuần thứ 13-18 của thai kỳ, và không còn nguy cơ dị tật thai nhi gần như không còn sau khi mắc bệnh Rubella sau tuần thứ 20 của thai kỳ.
Phụ nữ mang thai là đối tượng dễ mắc biến chứng của bệnh Rubella (Ảnh: Internet)
Trên đây là một số các biến chứng của bệnh Rubella có thể gặp và những đối tượng có nguy cơ cao dễ mắc phải. Vì vậy, cần đặc biệt thận trọng trong quá trình điều trị bệnh Rubella cho các đối tượng có nguy cơ cao mắc biến chứng của bệnh Rubella để có thể phát hiện và xử trí kịp thời, tránh để lại các ảnh hưởng lâu dài cho sức khỏe bệnh nhân.