Các phương pháp chẩn đoán bệnh lao hiện nay bộc lộ nhiều mặt hạn chế về thời gian trả kết quả lâu như nuôi cấy, độ nhạy thấp, do đó, các chuyên gia cho rằng rất cần có thêm phương pháp mới nhanh, tiện lợi hơn.
Việc sàng lọc, phát hiện các ca lao mới vẫn gặp nhiều khó khăn
Tại hội thảo về phương pháp chẩn đoán mới trong điều trị, thanh toán bệnh lao, PGS-TS Nguyễn Bình Hoà, Phó Giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương, Phó trưởng ban điều hành Chương trình lao Quốc gia cho biết khả năng tiếp cận chẩn đoán vẫn là một rào cản đáng kể đối với việc chăm sóc và điều trị lao.
Việt Nam đứng 11/30 nước có gánh nặng về lao và bệnh lao kháng đa thuốc cao nhất toàn cầu. Ước tính, mỗi năm tại Việt Nam có khoảng 169.000 ca bệnh lao mới mắc, 8.900 trường hợp kháng đa thuốc và khoảng 14.200 ca t.ử v.ong.
Gánh nặng về bệnh lao tại Việt Nam vẫn còn cao nhưng việc sàng lọc, phát hiện các ca lao mới vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Hiện còn có khoảng 40% bệnh nhân lao chưa được phát hiện.
Bệnh nhân lao điều trị tại Bệnh viện Phổi Trung ương (Ảnh: Minh Hương).
Theo PGS.TS Nguyễn Bình Hòa, các phương pháp chẩn đoán vi khuẩn lao hiện nay bộc lộ nhiều mặt hạn chế về thời gian trả kết quả lâu như nuôi cấy, độ nhạy thấp như soi AFB trực tiếp, hay chi phí cao như Xpert và hầu hết các phương pháp đều vẫn còn có những hạn chế.
Ngoài ra, việc chẩn đoán dựa trên mẫu đờm thường khiến cho việc chẩn đoán bị kéo dài vài ngày thậm chí vài tuần và khiến người bệnh không được xét nghiệm chẩn đoán lao kịp thời.
Trong đó, với phương pháp chẩn đoán lao truyền thống qua dịch đờm, nhiều người bày tỏ sự khó khăn, bất tiện khi lấy dịch đờm họng, nhất là với phụ nữ, t.rẻ e.m.
“Hậu quả của việc chẩn đoán chậm là gia tăng nguy cơ lây lan bệnh lao trong cộng đồng và làm chậm trễ trong điều trị đã dẫn đến gia tăng số ca t.ử v.ong do lao”- Phó Giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương nói.
Cùng quan điểm này, TS Nguyễn Thị Vân Anh, Trưởng Văn phòng FIND Việt Nam – tổ chức phi lợi nhuận trong lĩnh vực y tế đ.ánh giá, hầu hết các phương pháp chẩn đoán lao hiện nay còn nhiều hạn chế khi áp dụng cho bệnh nhân mắc lao ngoài phổi, lao phổi ít vi khuẩn, hay bệnh nhân HIV…
Do vậy, việc nghiên cứu và phát triển các xét nghiệm mới hiệu quả, thuận tiện và phù hợp hơn là đòi hỏi cấp thiết, đặc biệt các xét nghiệm chẩn đoán bệnh lao sử dụng các bệnh phẩm lâm sàng không phải là đờm rất cần thiết cho bệnh nhân mắc lao ngoài phổi, bệnh nhân không khạc được đờm, bệnh nhân HIV…
Ngoài ra, việc sử dụng bệnh phẩm khác ngoài đờm sẽ mở ra cơ hội phong phú hơn về giải pháp kỹ thuật để phát triển xét nghiệm mới.
Chia sẻ thêm thông tin về vấn đề này, TS Hoàng Thị Mỹ Hạnh, Viện Chiến lược và Chính sách y tế (Bộ Y tế) cho biết, có đến 64,1% nhân viên y tế được hỏi cho biết khó khăn trong việc lấy mẫu đờm do 97% người bệnh không thể khạc đờm. Lý do là người bệnh không biết cách khạc đờm, một số nhóm người bệnh không có đờm, sợ lây nhiễm…
Việc đưa mẫu đờm về phòng xét nghiệm và vài tuần sau mới có kết quả cũng là rào cản. Có đến 88,6% người dân có kết quả sau khi lấy mẫu từ 1 tuần-1 tháng; 7,4% lấy mẫu trong khoảng từ 1-3 tháng, có đến 2,7% chưa bao giờ nhận được và chỉ có 1,3% có được kết quả trong khoảng dưới 1 tuần.
Thêm phương pháp lấy mẫu mới để chẩn đoán, xét nghiệm lao
Từ tháng 6/2021 – 6/2025, Chương trình Chống lao Quốc Gia – Bệnh viện Phổi Trung ương phối hợp với FIND thực hiện Nghiên cứu đa trung tâm đ.ánh giá độ chính xác của các xét nghiệm chẩn đoán mới để phát hiện lao ở người trưởng thành: FEND-TB. Phương pháp mới lấy mẫu xét nghiệm bệnh lao bằng nước bọt (phết lưỡi) và nước tiểu, thay vì lấy đờm như hiện nay.
Mục đích là thu thập dữ liệu và mẫu bệnh phẩm lâm sàng, thực hiện các xét nghiệm chẩn đoán bệnh lao thông thường làm tiêu chuẩn tham chiếu và thực hiện các xét nghiệm.
Chia sẻ kết quả nghiên cứu về một số mẫu bệnh phẩm mới trong chẩn đoán lao tại cơ sở y tế, TS Hoàng Thị Mỹ Hạnh, cho biết hai phương pháp sàng lọc bệnh lao mới là: phết lưỡi và sử dụng nước tiểu để tìm vi khuẩn lao đang được thí điểm tại một số cơ sở y tế thuộc 4 tỉnh, thành phố có số ca mắc lao mới và tái phát hàng đầu là TP Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng và An Giang.
TS Hoàng Thị Mỹ Hạnh chia sẻ về tin tưởng của người bệnh đối với mẫu phết lưỡi/ nước tiểu so với mẫu đờm để xét nghiệm, chẩn đoán lao.
Theo TS Hạnh, các phương pháp này có nhiều ưu điểm so với phương pháp truyền thống đó là quy trình lấy mẫu nhanh, nguy cơ lây nhiễm thấp, tăng tiếp cận với xét nghiệm lao, phù hợp với chiến dịch sàng lọc cộng đồng quy mô lớn… Ngoài ra, phương pháp này cũng phù hợp với những bệnh nhân ốm nặng; những người không thể khạc đờm như người già và nhóm dễ bị bỏ sót là t.rẻ e.m; bệnh nhân HIV… Hiện các nghiên cứu đang tiếp tục được thực hiện để đ.ánh giá độ nhạy của phương pháp.
Đây là hướng tiếp cận quan trọng góp phần đạt mục tiêu chấm dứt bệnh lao ở Việt Nam, nguy cơ lây nhiễm thấp, giảm khối lượng công việc cho nhân viên y tế, mức giá thấp hơn so với xét nghiệm đờm.
Còn đối với mẫu nước tiểu, nhân viên y tế, mọi người cũng đều đ.ánh giá có nhiều lợi thế hơn lấy mẫu đờm, giá thành tương đối rẻ…
Hiện phương pháp FEND-TB được triển khai tại các quốc gia Nam Phi, Peru, Uganda, Moldova và Việt Nam. Mạng lưới nghiên cứu này đóng vai trò quan trọng trong việc tăng tốc việc đ.ánh giá để có thể đưa vào áp dụng một cách sớm nhất các công cụ chẩn đoán.
Nhiều người nhập viện do bệnh hô hấp, bác sĩ chỉ cách phòng bệnh khi trời lạnh
Các bác sĩ lưu ý khi thời tiết chuyển lạnh, người già và trẻ nhỏ dễ gặp phải những bệnh về đường hô hấp, thậm chí phải nhập viện.
Theo các bác sĩ, các bệnh hô hấp có đặc thù riêng. Đặc biệt, phổi là cơ quan trực tiếp giao tiếp với môi trường, hít thở luồng không khí bên ngoài môi trường vào cơ thể nên tất cả những thay đổi môi trường đều trực tiếp ảnh hưởng đến phổi, hệ hô hấp.
Khi yếu tố bảo vệ bị giảm sút sẽ tạo điều kiện cho các yếu tố nguy cơ bùng phát, người bệnh dễ bị kịch phát các đợt bệnh cấp tính, kịch phát các tình trạng n.hiễm t.rùng về hô hấp. Đặc biệt, khi bị nhiễm lạnh, viêm phổi, người có bệnh lý nền, bệnh thường nặng hơn. Đa số trường hợp đến khám phải nhập viện là những trường hợp nặng, nguy kịch.
Nhiều bệnh nhân phải nhập viện vì viêm phế quản mãn tính do n.hiễm t.rùng, liên quan mật thiết đến yếu tố thời tiết.
Ths.BS Vũ Văn Thành, Trưởng khoa Bệnh phổi mãn tính, Bệnh viện Phổi Trung ương cho biết, nhiều bệnh nhân phải nhập viện vì viêm phế quản mãn tính do n.hiễm t.rùng, liên quan mật thiết đến yếu tố thời tiết. Trong tháng qua, thời tiết giao mùa chuyển từ nóng sang lạnh khiến số bệnh nhân nội trú tăng rõ rệt.
“Nếu bình thường khoa chỉ điều trị khoảng 200 lượt bệnh nhân/tháng thì tháng vừa rồi tăng lên hơn 130%. Với các trường hợp nội trú điều trị, đa số trong tình trạng phải thở oxy, suy hô hấp. Thậm chí, có nhiều trường hợp rất nặng phải thở máy xâm nhập, đặt ống nội khí quản; cũng có trường hợp t.ử v.ong. Trong số các bệnh nhân đang điều trị, có 15 bệnh nhân phải thở máy không xâm nhập, thở máy hỗ trợ; số còn lại đa số phải thở oxy vì tình trạng suy hô hấp”, Ths.BS Vũ Văn Thành thông tin.
Miền Bắc đang trong những ngày giá rét, nhất là 10 ngày gần đây, nhiệt độ hạ đột ngột. Ths.BS Vũ Văn Thành khuyến cáo, với những trường hợp sẵn bệnh lý nền cần được quản lý bệnh nền thật tốt, theo dõi chuyên khoa kể cả bệnh lý về hô hấp và các bệnh lý đi kèm.
Người dân cần có chế độ bảo vệ cơ thể thật tốt như đảm bảo dinh dưỡng nhất là người cao t.uổi, cần ăn uống đủ chất. Về chăm sóc, những ngày rét, người cao t.uổi cần được giữ ấm, nhất là khi hay phải thức dậy về đêm, nếu không cẩn thận sẽ rất dễ bị nhiễm lạnh có thể gây bệnh về hô hấp, hoặc có thể gây những cơn đột quỵ tim, đột quỵ não. Người có bệnh nền cần hạn chế ra ngoài khi không cần thiết, nếu nhất thiết phải ra ngoài cần mặc ấm, đeo khẩu trang để giữ ấm đường hô hấp để phòng bệnh.
“Với trẻ nhỏ, cha mẹ cần để ý trẻ không để trẻ bị nhiễm lạnh về đêm, thay tã bỉm kịp thời tránh bị lạnh do trẻ tiểu đêm… Đồng thời, để tăng sự bảo vệ chủ động, với người bệnh nền, những người trên 65 t.uổi nên tiêm phòng cúm, tiêm phòng vi khuẩn phế cầu để giảm tỷ lệ nhiễm bệnh về phổi, tăng khả năng phòng bệnh”, Ths.BS Vũ Văn Thành khuyến cáo.