Ngày 28.4, bác sĩ CKII Phan Hữu Chính, Giám đốc Bệnh viện đa khoa tỉnh Khánh Hòa cho biết: Khoa Tim mạch can thiệp, Trung tâm tim mạch của bệnh viện này lần đầu tiên can thiệp điều trị thành công, đặt stent động mạch thận cho bệnh nhân hẹp nặng động mạch thận 2 bên.
Ê kíp tham gia can thiệp – CÔNG THI
Bệnh nhân H.V.P.H (54 t.uổi ở TP.Cam Ranh, Khánh Hoà), nhập viện trong tình trạng đột ngột có cơn tăng huyết áp 250/130 mmHg, tức ngực, khó thở…
Sau 2 ngày phối hợp với 4 loại thuốc điều trị tăng huyết áp nhưng tình trạng tăng huyết áp của bệnh nhân không cải thiện (huyết áp tối đa dao động 170-180mmHg), các bác sĩ tại khoa tim mạch can thiệp nghi ngờ bệnh nhân tăng huyết áp thứ phát do hẹp động mạch thận.
Tiến hành siêu âm Doppler động mạch thận ghi nhận hẹp động mạch thận bên phải, bệnh nhân được tiến hành chụp mạch m.áu xóa nền (DSA) ghi nhận hẹp 70% đường kính động mạch thận phải và 70% động mạch thận trái. Mặc dù đã được điều trị nội khoa tối ưu nhưng bệnh nhân đáp ứng kém trong suốt quá trình điều trị, vì vậy đã được hội chẩn và can thiệp đặt stent động mạch thận phải.
Sau 3 ngày, tới thời điểm này huyết áp bệnh nhân đã đáp ứng tốt với điều trị nội khoa 130/80 mmHg.
Theo các bác sĩ chuyên khoa, chức năng chính của thận là lọc các chất độc trong m.áu và đào thải ra ngoài theo đường nước tiểu.
Nguyên nhân chính gây hẹp động mạch thận là do xơ vữa (thường ở bệnh nhân hơn 45 t.uổi, thường liên quan lỗ động mạch chủ hoặc đoạn gần động mạch thận) hoặc do tăng sản xơ cơ (thường gặp ở, phụ nữ dưới 50 t.uổi và liên quan đến đoạn xa động mạch thận và nhánh trong thận), khi động mạch thận bị hẹp, thận sẽ thiếu m.áu.
Quá trình này kéo dài sẽ dẫn đến suy giảm chức năng thận, mặt khác vì thiếu m.áu đến thận nên thận sẽ tiết Renin gây tăng huyết áp mất kiểm soát.
Theo PGS.TS.BS Huỳnh Văn Thưởng, Trưởng ê kíp can thiệp, Giám đốc Trung tâm Tim mạch cho biết: Nhiều năm qua, Trung tâm can thiệp tim mạch là chủ yếu, nhưng đặt stent động mạch thận là lần đầu tiên.
Người bệnh cũng cần hiểu rõ hơn về bệnh hẹp động mạch thận, tuy chỉ chiếm dưới 1% bệnh nhân tăng huyết áp mức độ nhẹ và vừa, tuy nhiên tỷ lệ này tăng lên 10-40% ở những bệnh nhân tăng huyết áp dưới 35 t.uổi, đột ngột huyết áp tăng cao mất kiểm soát ở bệnh nhân trên 55 t.uổi, hoặc tăng huyết áp kháng trị… qua đó sẽ gây nguy hiểm đến sức khỏe, thậm chí đến tính mạng của người bệnh.
Vì vậy, khi bệnh nhân thấy có các dấu hiệu bệnh kể trên cần đến ngay cơ sở y tế có năng lực thăm khám để được điều trị kịp thời.
Sốc phản vệ nặng sau khi thái một củ hành
10 phút sau khi thái một củ hành để chuẩn bị nấu ăn tối, nam thanh niên 25 t.uổi (Phú Thọ) đột ngột xuất hiện sưng nề mặt, mắt. Tình trạng ngày càng nghiêm trọng nên gia đình đã đưa bệnh nhân đến bệnh viện cấp cứu.
Bác sĩ Sùng Đức Long, Giám đốc Trung tâm cấp cứu 115, Bệnh viện đa khoa Hùng Vương, Phú Thọ thông tin, khi nhập viện, người bệnh đã ở trong tình trạng sốc phản vệ nặng với với biểu hiện phù nề toàn bộ mặt và hai mắt, mắt không thể mở, tức ngực, khó thở.
Ngay lập tức, các bác sĩ tiến hành cấp cứu theo phác đồ sốc phản vệ. Sau khi tiêm Adrenaline đường bắp (thuốc chống sốc phản vệ), bệnh nhân có dấu hiệu giảm khó thở, nhưng mặt và hai mắt vẫn sưng nề. Khoảng 20 phút sau cấp cứu, bệnh nhân dần ổn định và chuyển điều trị tại khoa Hồi sức của bệnh viện.
Theo bác sĩ Long, việc dị ứng, sốc phản vệ có thể xảy ra bất cứ lúc nào, tùy thuộc vào thể trạng của từng người.
Bác sĩ khuyến cáo khi cơ thể có dấu hiệu bất thường sau khi tiếp xúc với các dị nguyên như: ong đốt, kiến đốt, tiêm, uống thuốc, ăn các loại thực phẩm… người dân cần đến ngay cơ sở y tế gần nhất để được cấp cứu kịp thời.
Bệnh nhân thời điểm nhập viện Đa khoa Hùng Vương, Phú Thọ cấp cứu – Ảnh: BVCC
Thông tin từ Thông tư hướng dẫn phòng, chẩn đoán và xử trí phản vệ của Bộ Y tế, phản vệ là một phản ứng dị ứng, xuất hiện ngay lập tức từ vài giây, vài phút đến vài giờ sau khi cơ thể tiếp xúc với dị nguyên. Phản vệ gây ra các bệnh cảnh lâm sàng khác nhau, có thể nghiêm trọng dẫn đến t.ử v.ong nhanh chóng.
Sốc phản vệ là mức độ nặng nhất của phản vệ do đột ngột giãn toàn bộ hệ thống mạch và co thắt phế quản, có thể gây t.ử v.ong trong vòng một vài phút.
Nên nghĩ đến phản vệ khi xuất hiện ít nhất một trong các triệu chứng sau: mày đay, phù mạch nhanh; khó thở, tức ngực, thở rít; đau bụng hoặc nôn; tụt huyết áp hoặc ngất; rối loạn ý thức.Tất cả trường hợp phản vệ phải được phát hiện sớm, xử trí khẩn cấp, kịp thời ngay tại chỗ và theo dõi liên tục ít nhất trong vòng 24 giờ.
Phản vệ được phân thành 4 mức độ (mức độ phản vệ có thể nặng lên rất nhanh và không theo tuần tự):
– Mức nhẹ (độ I): Chỉ có các triệu chứng da, tổ chức dưới da và niêm mạc như mày đay, ngứa, phù mạch.
– Mức nặng (độ II): có từ 2 biểu hiện ở nhiều cơ quan: Mày đay, phù mạch xuất hiện nhanh; Khó thở nhanh nông, tức ngực, khàn tiếng, chảy nước mũi; Đau bụng, nôn, ỉ.a c.hảy; Huyết áp chưa tụt hoặc tăng, nhịp tim nhanh hoặc loạn nhịp.
– Mức nguy kịch (độ III): biểu hiện ở nhiều cơ quan với mức độ nặng hơn như sau: Đường thở: tiếng rít thanh quản, phù thanh quản; Thở: thở nhanh, khò khè, tím tái, rối loạn nhịp thở; Rối loạn ý thức: vật vã, hôn mê, co giật, rối loạn cơ tròn; Tuần hoàn: sốc, mạch nhanh nhỏ, tụt huyết áp.
– Mức ngừng tuần hoàn (độ IV): Biểu hiện ngừng hô hấp, ngừng tuần hoàn.
Khi xảy ra sốc phản vệ, người dân cần ngay lập tức: ngừng tiếp xúc với thuốc hoặc dị nguyên (nếu có); nằm tại chỗ, đầu thấp, nghiêng trái nếu có nôn; gọi ngay cho cấp cứu 115 hoặc đến cơ sở y tế gần nhất.